C-    BÍ TÍCH

 

245- Dấu hiệu bề ngoài của các bí tích gồm có hai phần là vật thể và ngôn từ (res et verbum hay elementum và verbum). (SF)

 

246- Các Bí Tích của Tân Ước chứa đựng ân sủng được các bí tích này làm biểu hiệu và ban ân sủng đó cho những ai lãnh nhận không bị ngăn trở. (DF)

 

247- Các Bí Tích sinh ơn ích là do bởi quyền năng của chính lễ nghi được cử hành một cách trọn vẹn (ex opere operato). (DF)

 

248- Tất cả các Bí Tích của Tân Ước đều sinh ơn thánh hóa cho thụ nhân. (DF)

 

249- Mỗi bí tích đều sinh ơn bí tích (tích sủng). (SC)

 

250- Bí Tích Rửa Tội, Thêm Sức và Truyền Chức còn ghi ấn tích nơi linh hồn thụ nhân, và vì thế ba bí tích này chỉ được ban một lần duy nhất mà thôi. (DF)

 

251- Ấn Tích là một dấu vết thiêng liêng không thể xóa bỏ được in vào linh hồn thụ tích nhân. (DF)

 

252- Ấn Tích làm cho thụ tích nhân có đủ năng quyền để thi hành các tác động Thờ Phượng Kitô Giáo. (SC)

 

253- Ấn Tích tồn tại ít là cho tới khi thụ tích nhân chết. (DF)

 

254- Tất cả mọi Bí Tích của Tân Ước đều được Chúa Giêsu Kitô thiết lập. (DF)

 

255- Một mình Chúa Kitô trực tiếp thiết lập tất cả mọi Bí Tích. (SFP)

 

256- Chúa Kitô ấn định bản chất của các Bí Tích và Giáo Hội không có quyền thay đổi. (SFP)

 

257- Tân Ước có bảy phép Bí Tích. (DF)

 

258- Thiên Chúa có thể ban ơn mà không cần phải qua các Bí Tích. (SFP)

 

259- Các Bí Tích của Tân Ước cần thiết cho phần rỗi của loài người. (DF)

 

260- Thừa tác viên chính của các Bí Tích là vị Thiên Chúa Làm Người Giêsu Kitô. (SFP)

 

261- Thừa tác viên phụ của các Bí Tích là con người còn sống. (SC)

 

262- Bí Tích thành hiệu và tác hiệu không lệ thuộc vào tình trạng chính thống về đạo của thừa tác viên (DF: đối với Bí Tích Rửa Tội; SF: đối với các Bí Tích khác) cũng như vào tình trạng ân sủng của thừa tác viên (DF).

 

263- Để ban các Bí Tích thành hiệu, thừa tác viên cần phải hoàn tất Dấu Bí Tích một cách xác đáng (DF) và còn phải có ít là chủ ý làm điều Giáo Hội làm (DF).

 

264- Chỉ có người còn sống mới lãnh nhận Bí Tích thành hiệu. (SC)

 

265- Thụ tích nhân không cần phải có đức tin truyền thống hay phải xứng đáng về luân lý mới lãnh nhận Bí Tích thành hiệu, ngoại trừ Bí Tích Giải Tội. (SC)

 

266- Thụ tích nhân lớn cần phải có ý lãnh nhận Bí Tích thì Bí Tích mới thành hiệu. (SFP)

 

267- Thụ tích nhân lớn cần phải xứng đáng về luân lý mới lãnh nhận các Bí Tích nên hay Bí Tích mới sinh tác hiệu. (DF)

 

268- Các Bí Tích Rửa Tội, Thêm Sức và Truyền Chức một khi đã được lãnh nhận thành hiệu nhưng không tác hiệu, phục hồi tác hiệu của mình khi thụ tích nhân không còn các ngăn trở về luân lý nữa, tức sẽ sinh tích sủng sau đó. (SC)

 

269- Các Bí Tích của Cựu Ước không sinh ơn theo nghi thức của mình, mà chỉ là một việc thanh tẩy hợp lệ bề ngoài mà thôi. (SFP)

 

270- “Các á bí tích là những sự hay những việc Giáo Hội dùng, một cách nào đó giống như các Bí Tích, để nhờ lời cầu nguyện của mình, đạt được các công hiệu trước hết cho đời sống thiêng liêng” (CIC: Codex Iuris Canonici hay Giáo Luật Cũ, khoản 1144). Theo nguyên tắc, các á bí tích được Giáo Hội thiết lập chứ không phải là Chúa Kitô. Các á bí tích không sinh ơn theo việc làm (ex opere operato), tuy nhiên, công hiệu của các á bí tích không chỉ căn cứ vào điều kiện chủ quan nơi người thực hiện các á bí tích mà vào chính việc chuyển cầu của Giáo Hội là hiền thê thánh hảo tinh tuyền của Chúa Kitô. Các á bí tích không trực tiếp sinh ơn thánh mà chỉ sửa soạn cho linh hồn thi hành các á bí tích này có thể lãnh nhận ơn thánh.